Biệt đội siêu Roboot Game đánh theo lượt đầy lôi cuốn bạn còn được chiêm ngưỡng rất nhiều loại vũ khí khác nhau. Chi tiết » |
Sáng hôm sau ngủ dậy, đánh răng rửa mặt xong quyết tâm làm năm mươi cái chống đẩy, cảm thấy chưa đã, lại làm thêm một bài thể dục nữa.
ra bảng thông báo của khách sạn, nhìn tờ giấy đã dán ở đó hôm trước : "Tìm tám người cùng đi thám hiểm thành cổ Lâu Lan." Thấy chỉ có một người để lại lời nhắn, viết: "Thằng điên !" Tôi nghĩ một lát, rồi viết thêm bên dưới: "Ngoài anh bạn Thằng Điên này ra, còn ai muốn đi nữa thì xin để lại lời nhắn."
Nhân viên phục vụ gọi tôi nghe điện thoại, là của công ty du lịch dã ngoại tổ chức đợt thám hiểm Lâu Lan lần này, họ nói trong tuần này nhất định phải chốt số người đi, nếu không sẽ hủy bỏ kế hoạch. Tôi gác điện ngoại, ngồi lỳ trong phòng đọc Ilias của Homere, đọc đến đoạn "Themis cầm chân Achilles nhúng xuống dòng sông Đen", liền gấp sách lại, hai tay ôm đầu, dựa lưng vào đầu giường trầm tư suy nghĩ một lúc lâu.
Buổi chiều nhàn rỗi không có việc gì làm, tôi lại mò ra chỗ Trát Ba.
Anh ta đang bận mài răng. Nhìn tôi cười cười, ra hiệu ngồi xuống, rồi lại tiếp tục mài răng. Tôi rút một điếu MOODS đưa cho Trát Ba, hai người ngồi lặng lẽ hút thuốc, không nói gì. Tôi mang cho Trát Ba một đĩa CD tuyển tập của The Beatles. Anh ta rất vui, liền mượn ngay máy nghe nhạc ở hàng bên cạnh nghe từ đầu đến cuối, đầu lắc lư lắc lư, không ngừng nhìn tôi cười cười. Đến bài "Hey ! Jude !" Trát Ba liền rống lên như tối qua, làm tôi bật cười sằng sặc.
Trát Ba lại đòi mời cơm.
Chúng tôi đi đón Kha Lan vừa tiễn đoàn du lịch đi, rồi đến quảng trường 1- 5.
Ba người gặp hàng nào là xà vào hàng đó, cơm thịt dê, mỳ kéo, bánh bao rán, mùi vị rất đặc biệt. Kha Lan muốn ăn kem, Trát Ba liền kéo cô bé sang quán giải khát cạnh đó, còn tôi thì đứng xếp hàng đợi thịt dê xiên nướng.
Sau đó, đã xảy ra một vụ tranh chấp kịch liệt.
Một đám thanh niên Tân Cương đòi lấn hàng tranh chỗ của tôi. Tôi không đồng ý, hai bên liền bắt đầu cãi nhau, một gã ăn mặc kiểu Kazakh bất ngờ đấm mạnh một cái, tôi không đề phòng bị gã ta đánh cho ngã lăn ra đất, đụng phải cái lò nướng, làm đồ đạc liểng xiểng rơi lên người. Đám thanh niên cười ồ lên, cứ như kẻ vừa bị đánh không phải người, mà là một con lợn vậy. Tôi lồm cồm bò dậy, đứng trân mắt nhìn bọn chúng cười. Đám thanh niên tưởng tôi muốn xin lỗi, lại ngạo mạn cười to hơn nữa, quay đầu đi không thèm nhìn tôi. Tôi lặng lẽ cầm một chiếc ghế băng dài, xông tới đập thẳng vào lưng gã vừa đánh mình. Gã thanh niên kêu lên một tiếng rồi gục xuống. Cả đám còn lại đều bừng bừng tức giận, vây lấy tôi vào giữa. Tôi biết là không xong, liền vứt luôn chiếc ghế trong tay xuống đất, định để mặc cho chúng muốn làm gì thì làm. Đột nhiên, một tên trong bọn bất ngờ ngã bổ nhào tới trước mặt tôi. Phía sáu là Trát Ba, anh ta một tay cầm cái ghế, một tay bảo vệ Kha Lan, ánh mắt lạnh lùng nhìn đám thanh niên còn lại, tựa như một con báo dũng mãnh trong sa mạc đang nhìn con mồi của mình vậy.
Cảnh sát đến nơi thì sự việc đã kết thúc. Đối phương một bị thương nặng, hai người không bò dậy nổi. Còn tôi thì bị đánh sưng tím mặt mũi, cánh tay không nhấc lên nổi. Trát Ba trúng một đao vào vai, vết thương rất sâu, hình như đã phạm vào đến xương. Cũng may là Kha Lan không sao hết.
Trát Ba bị thương vì bảo vệ tôi.
Vừa rồi lúc đánh nhau, thằng nhãi bị tôi đánh ngã lẻn ra phía sau, tay lăm lăm cầm dao Yengisar định đánh lén. Trát Ba liếc thấy liền xông tới ôm chặt lấy tôi. Lưỡi dao đâm vào bả vai ngọt sớt. Điều làm tôi kinh hãi là lúc bị đâm, Trát Ba không hề tỏ ra đau đớn, ngược lại còn mỉm cười nói với tôi: "Bây giờ thì chúng ta là bạn rồi !"
Đến bệnh viện băng bó, Trát Ba vẫn cứ như không có chuyện gì xảy ra, từ đầu đến cuối chỉ cười cười.
Nụ cười ngây ngô của Trát Ba làm tôi nhớ đến Quán Đầu, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác ấm áp khôn tả.
Hôm sau Kha Lan phải theo đoàn du lịch đi hồ Kanasi, để Trát Ba để lại cho tôi chăm sóc, chúng tôi bèn quyết định dọn luôn vào khách sạn ở.
Thực ra phải nói là Trát Ba chăm sóc tôi mới đúng. Cậu ta chỉ bị thương ở vai, hành động vẫn bình thường. Còn tôi thì một tay không cử động được, rửa mặt tắm rửa đi toilet đều hết sức khó khăn, đều phải nhờ Trát Ba giúp đỡ. Lúc rửa mặt, cậu ta dấp ướt khăn, rồi lau mặt cho tôi, sau đó lại giặt sạch khăn, treo lên chỗ thoáng gió. Lúc đánh răng, Trát Ba bóp kem đánh răng, rót nước cho tôi, đợi tôi đánh răng xong, liền cầm chiếc cốc dính đầy bọt bẩn đem đi rửa sạch sẽ.
Chúng tôi ngồi nói chuyện, nói mệt rồi thì xem sách, xem sách chán lại nghe nhạc, nghe nhạc chán thì đi ngủ, tỉnh dậy lại tiếp tục nói chuyện, đói thì gọi quán anh cạnh đó mang đồ lên, vừa ăn vừa uống rượu, ăn xong lại nói chuyện tiếp. Mấy ngày sau, vết thương của cả hai đã đỡ nhiều, ban ngày tôi ra tiệm của Trát Ba giúp đỡ, đến tối chờ Kha Lan về, ba người chúng tôi lại dọn đồ đi ăn. Ăn xong thì vác bia ra chợ ngồi nhìn mọi người nhảy múa các điệu vũ Tân Cương đặc sắc.
Cứ đến chiều tối là có các ông già người Duy ra ngồi thành một vòng lớn dưới đất, thổi kèn, đánh đàn Donbula, gõ các loại trống khác nhau. Các cô gái chàng trai địa phương và các du khách đều hoan hỉ nhảy múa rất vui vẻ.
Trát Ba rất hào hứng, cậu ta kéo Kha Lan ra nhảy chung với mọi người. Họ dơ tay cao quá đầu, eo hông lắc theo nhịp điệu, mũi chân không ngừng nhún nhảy. Ánh hoàng hôn rải trên người họ, tạo thành một đôi bóng dài lắc lư trên mặt đất.
Tôi nhìn Trát Ba và Kha Lan, trong lòng bồi hồi cảm động.
Có lẽ hạnh phúc chính là đây.
Trở về khách sạn, cảm giác xúc động đó vẫn còn trào dâng như sóng cuộn.
Tôi ngồi nghĩ một lát, rồi chạy ra quầy, gọi điện cho Lông Mi ở nhà. Mãi không thấy ai bắt máy, đành bỏ cuộc.
Lại gọi điện về quán. Trà Sữa nghe máy, nó nói mọi chuyện đều ổn, bảo tôi đừng lo. Hỏi thăm Bì Tử, nhưng cậu ta không ở quán, không biết lại lượn đi đâu mất.
Tôi buông máy, ngồi ngẩn người ra trong sân một lúc lâu.
Đột nhiên nhận ra nếu có một người trong lòng để mà nhớ nhung, để mà lo lắng thì thật hạnh phúc biết bao ?
Chợt thấy xót xa.
Một hôm, Trát Ba đột nhiên quyết định đến các làng ở xa thu mua hàng hóa.
Tôi tỏ ý muốn đi cùng, cậu ta liền gật đầu vui vẻ đồng ý. Hai người thuê một chiếc xe hàng cũ kỹ rách nát, đem các đồ dùng cấn thiết khi đi đường vứt lên thùng xe, rồi tạm biệt Kha Lan, lên đường từ sáng sớm. Kế hoạch của tôi với Trát Ba là đi vòng ra phía Tây Bắc sa mạc Taklimakan, thẳng tiến theo con đường song song với sông Tarim.
Cậu ta bị ảnh hưởng của tôi, lúc lái xe nhất định phải nghe nhạc mới chịu được.
Tôi bật một album của Nirvana. Trát Ba hỏi ban nhạc nào đang hát ? Nghe tôi bảo là Nirvana, ca sĩ chính Kurt Coban đã tự sát. Cậu ta liền cười cười, bảo chẳng trách, nghe thứ nhạc này mà không tự sát mới là lạ, nói gì người đã viết ra nó. Rồi cậu ta lại hỏi tôi xem Kurt tự sát thế nào ? Tôi nói, ngậm họng súng vào miệng, rồi lẩy có, một tiếng nổ vang, đầu nát toét, vô cùng bi tráng. Trát Ba nghe xong thì cười, nói còn có chuyện bi tráng hơn nữa, chính là sau khi chết đi, được thiên táng trên tảng đá lớn ở di chỉ Cổ Cách, nằm đó cho lũ chim ưng đầu hói ăn thịt. Tôi hỏi tại sao phải đến tận Cổ Cách. Trát Ba nói đó là ngôi nhà tinh thần của cậu ta, nhà ở ngay gần đó, mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chỉ cần tới khu di chỉ đổ nát đó ngồi một lát là lập tức tìm được phương cách giải quyết, vô cùng thần ký. Tôi thay đĩa "Trở về Lasa" của Trịnh Quân vào, rồi cùng Trát Ba hưng phấn hát theo đến lúc khản cả cổ mới thôi.
Chúng tôi lái xe qua núi Thiên Cách Nhĩ cao vút. Đến chạng vạng tối thì đến được Korla.
Trát Ba dẫn tôi đến một khu chợ bán thổ sản địa phương. Ở đây có đủ thứ hình thù kỳ lạ, nhìn rất bắt mắt.Cậu ta cẩn thận xem xét từng thứ một, do dự hồi lâu trước một mảnh gỗ sứt mẻ lung tung, nghe nói mảnh gỗ này được lấy từ thành cổ Lâu Lan, giá rất cao. Trát Ba đứng thần người ra nhìn một lúc, thở dài vì đồ vật trong thành cổ bị trộm đem ra ngoài bán, rồi nói ước mơ lớn nhất đời mình là tìm ra một di chỉ giống như Lâu Lan hay Cổ Cách. Chúng tôi chọn mua một ít răng thú, sừng và da thú. Tối đến, hai người ngủ trong phòng ngủ chung của khách sạn, các khách khác cứ ngáy pho pho như sấm, trông chẳng khác gì cái chuồng lợn.
Trời mới tờ mờ sáng, Trát Ba đã gọi tôi dậy,
Xe hàng đi khỏi Korla, rời khỏi đường quốc lộ đi vào con đường nhỏ ghập ghềnh khúc khuỷu. Chắc bao lâu sau chúng tôi đã qua sông Khổng Tước. Trát Ba bảo con sông này nối liền hồ Bác Tư Đằng và Luobupo. Tôi nói có thể ngồi thuyền đi Luobupo. Hai người cùng cười phá lên. Nói đến Luobupo, tất nhiên không thể không nói đến Bành Gia Mộc và Dư Thuần Chân. Nhắc đến Dư Thuần Chân, Trát Ba có vẻ rất tôn kính, nói Dư Thuần Chân đã làm thay đổi cách nhìn của cậu ta với người Hán: hồi trước cứ luôn cho rằng người Hán không thể chịu khổ, chỉ biết ngồi ở thành phố mà châm chọc người sống trong sa mạc, Dư Thuần Chân đã cho cậu ta biết thế nào là anh hùng. Trát Ba có một nguyện vọng là được đến trước mộ Dư Thuần Chân, xem thử linh hồn của người anh hùng còn lẩn khuất nơi nao.
Đến trưa, thì chúng tôi qua sông Tarim, lên đến đường quốc lộ chạy ngang sa mạc.
Ngồi xuống ven đường, lấy bánh mì, thịt trâu và nước suối ra ăn nhồm nhoàm. Con đường trước mặt kéo dài mãi dài mãi rồi biến mất ở đường chân trời. Trát Ba nói cứ đi thẳng thì sẽ đến Tây Tạng, vùng đất của các linh hồn. Ăn xong, hai chúng tôi nằm xuống vệ đường nghỉ ngơi. Trát Ba nằm một lúc đã ngáy đều đều, còn tôi thì nằm nghe "Texas, Paris". Ở trong không gian này mà nghe thứ nhạc này thì quả thật không còn gì hợp hơn nữa. Thật khâm phục sự sâu sắc mà một cây ghita có thể tạo ra, sức hấp dẫn thậm chí còn mạnh hơn cả giàn nhạc giao hưởng.
Rời khỏi quốc lộ, đường đi càng thêm khó khăn. Chúng tôi đến Ca Thập thu mua một ít hàng hóa ưa thích. Nhưng không có răng báo của Trát Ba. Đối phương bật cười: "Thời buổi này biết đi đâu tìm báo bây giờ ?" Trát Ba không hề nản lòng, đi đâu cũng hỏi răng báo.
Chúng tôi rời Ca Thập, qua Diệp Thành đến Hòa Điền. Hòa Điền là một thị trấn nhỏ ở Nam Cương vẫn còn giữ được phong vị độc đáo của Tân Cương. Ở đây rất khó tìm được người nào nói lưu loát tiếng Hán, còn tiếng Duy của Trát Ba thì cũng chẳng ra sao, cuối cùng chúng tôi phải đến trường tiểu học mời một thầy giáo tiếng Hán làm phiên dịch. Tiếng Hán của thầy giáo người Duy này cũng không được ổn lắm, nhưng cũng có thể miễn cưỡng chấp nhận. Lúc đi, không có gì để cảm ơn, tôi liền lấy luôn quyển sử thi Ilias mang theo trong túi tặng cho ông ta.
Đến một cửa hàng nhỏ nằm bên cạnh sa mạc Taklimakan của một ông lão người Duy.
Ông già mặt đầy râu ria, có vẻ rất thân với Trát Ba, lấy ra một mảnh vỡ từ tấm bia đá cổ, bên trên có khắc văn tự cổ. Một tấm bia đá hết sức không bình thường. Nơi chôn vùi nó chắc hẳn lại càng không bình thường hơn. Tôi lập tức móc tiền ra mua. Ông lão nói phát hiện được nó ở một nơi trong sa mạc Taklimakan cách chỗ chúng tôi đang đứng mấy chục cây số, nơi đó có một quần thể mộ cổ bị cát chảy chôn vùi. Nơi này là do đám trẻ tình cờ phát hiện ra trong khi đi chơi.
Chúng tôi bị ý nghĩ thám hiểm làm cho máu nóng trong người sôi lên sùng sục, hỏi kỹ ông lão địa điểm rồi lập tức lái xe lên đường.
Đến rìa sa mạc. Sa mạc vừa đáng yêu vừa đáng sợ. Những đụn cát dập dềnh như sóng trải dài vô tận ra trước mắt, tựa như đang nói: hoan nghênh các người đến với vòng tay của tử thần. Tôi nhìn Trát Ba, Trát Ba cũng nhìn tôi, cả hai cùng cười cười. Hai người lấy balô, đổ đầy nước vào các chai, cầm la bàn, đeo kính chống cát, rồi tiến vào sa mạc theo hướng ông già đã chỉ.
Khoảng tám chín cây số đầu tiên, chúng tôi còn nói nói cười cười được. Mặt cát tương đối cứng, dẫm lên rất dễ chịu. Quay đầu nhìn lại, thôn trấn nhỏ vẫn lười nhác nằm phơi mình dưới ánh mặt trời oi ả. Sau khi trèo qua một triền dốc, thôn trấn nhỏ đã biến mất, bồn bề chỉ còn là đồi cát mênh mông. Lại đi thêm năm sáu cây số nữa, chúng tôi bắt đầu thấm mệt. Cát dưới chân càng lúc càng mềm, thường sụt cả chân xuống. Mặt trời mỗi lúc một nóng, chúng tôi bắt đầu thở dốc và không ngừng uống nước. Nhìn xung quanh, tất cả đều chỉ là sa mạc mênh mông vô tận.
Trát Ba lấy ống nhòm ra, vừa nhìn xung quanh vừa lẩm nhẩm lại lời của ông lão: "Một dòng sông khô cạn, một bụi cỏ lạc đà, một bức tường đổ, kia rồi !" Tôi duỗi tay chân nằm phịch xuống mặt cát, một lát sau thì phải bò dậy, cát nóng như nước sôi, muốn tìm một chỗ mát mẻ để ngồi cũng không được, toàn bộ sa mạc đều là lãnh địa của mặt trời. Tôi bắt đầu dao động. Trát Ba nói có thể lòng sông đã bị cát chảy lấp mất, tiếp tục tìm kiếm chắc sẽ có phát hiện. Đành lết thân đứng dậy đi tiếp với cậu ta. Hai người lại đi thêm ba bốn cây số nữa. Mỗi một bước, cát chảy đều ngập tới mắt cá chân, toàn thân mồ hôi ướt đẫm. Ý chí của tôi bắt đầu dao động, không ngừng do dự. Trát Ba quay đầu lại, ánh mắt đầy vẻ khích lệ. Không muốn mất mặt, đành tiếp tục lê lết về phía trước.
Đột nhiên một chân thụt vào hố cát, sâu tới cả mét, người tôi ngã vật ra. Trát Ba vội vàng kéo lấy tôi. Cả hai đều hú hồn, cứ tưởng rơi vào hố cát trôi như trong phim "Khả Khả Tây Lý". Lúc được kéo ra ngoài, mồ hôi lạnh ướt đẫm khắp người tôi. Trát Ba khom người kiểm tra, đào thử mấy cái, cát rất xốp, đào thêm mấy nhát nữa thì lòng sông cạn bắt đầu lộ ra. Thì ra nơi tôi bị thụt xuống chính là dòng sông khô cạn mà ông lão đã nhắc tới. Cậu ta lấy ốm nhòm ra, điều chỉnh tiêu cự, cuối cùng cũng phát hiện ra nơi cần đến. Chúng tôi đều rất hưng phấn, sải chân bước đi. Một ốc đảo đã hoàn toàn bị sa mạc hóa. Cách đó không xa chính là bức tường đổ ông lão đã nói. Tôi và Trát Ba mang theo tâm trạng thành kính tiến về phía đó. Vừa tới chân tường, tôi đã ngồi phịch xuống, không muốn đứng dậy nữa. Trát Ba thì vẫn tiếp tục đi vòng quanh quan sát.
Một tòa thành bằng đất.
Niên đại kiến trúc lâu đời, các bức tường chính đã bị gió cát xói mòn gần hết. Trong quá khứ, nơi này có lẽ là một đầu mối giao thông quan trọng, nhưng rồi bị sa mạc xâm lấn nên bị bức bách phải bỏ hoang. Về cơ bản, thành đất đã sụp đổ chỉ còn lại một chút tàn tích. Ở giữa thành đã bị đào bới. Nhưng người đào bới chỉ đào đến nền đất là hết kiên nhẫn bỏ cuộc, tòa thành tựa như đang một người đang muốn mở miệng dãi bày tâm sự với mọi người, nhưng chỉ mở ra rồi lại thôi. Trát Ba lấy một cái túi to, nhặt một ít đất, gỗ, những miếng bùn có màu dầu, ngói bỏ vào đấy rồi mới quay lại chỗ tôi ngồi xuống, thở phào một hơi, nét mặt rất hạnh phúc, vừa mỉm cười vừa hút thuốc.
Tôi hỏi cậu ta có cần đào tiếp không ? Trát Ba lắc đầu, thấy vẻ ngạc nhiên trên mặt tôi, cậu ta liền giải thích: "Phương pháp bảo quản tốt nhất chính là phong kín". Trát Ba định trở về nói cho mấy người bạn làm khảo cổ, để họ tổ chức thám sát khai quật, dù sao người ta cũng là dân chuyên nghiệp. Tôi trêu trọc, nói biết đâu ở đây cũng có kho báu như kho báu ở thành Troy cũng không chừng ? Trát Ba bảo có hay không cũng không quan trọng, tiền bạc không phải giấc mơ lớn nhất của cậu ta, giấc mơ lớn nhất chính là tìm được thành cổ Lâu Lan thứ hai, để toàn thế giới phải nhìn vùng đất khô cằn nghèo khổ này bằng con mắt khác.
Hoàng hôn đỏ rực như máu. Sa mạc chìm trong yên tĩnh. Dưới ráng chiều rực rỡ, những gì còn sót lại của tòa tành toát lên một vẻ thần bí lạ kỳ, khiến máu nóng trong người cuồn cuộn trào dâng. Lịch sử có một sức mạnh thần kỳ: dù thiên tai địch họa thế nào cũng không thể vùi lấp được hoàn toàn lịch sử. Chúng tôi ngồi đến tận lúc mặt trời khuất núi, rồi mới lưu luyến trở về.
Đêm đó chúng tôi ngủ ở nhà ông lão người Duy.
Nửa đêm tôi đột nhiên sốt cao. Trát Ba lấy thuốc giảm sốt cho uống, ông lão cũng nấu cho một bài thuốc ở địa phương, nhiệt độ cũng tạm trở lại bình thường, Trát Ba ngồi cạnh tôi cả đêm, không ngủ lấy một phút. Ngày hôm sau tôi đã bớt sốt, nhưng vẫn còn hâm hấp, mồ hôi đầm đìa khắp người, thi thoảng còn nôn ọe. Trát Ba đành tìm một chiếc xe đi về Urumuqi, đưa tôi lên rồi nhờ tài xế chăm sóc cẩn thận.
- Sao không về cùng tôi luôn ?
Tôi hỏi.
- Còn chuyện rất quan trọng chưa làm, làm xong mới về được.
Ăn xong cơm trưa, tôi lại ra vườn ngồi nghe bản Concertos Brandenburg của Bach. Nghe được một nửa, thì đột nhiên có một chiếc giày bay tới, suýt chút nữa thì trúng người tôi. Một lúc sau thì chủ khách sạn đến, hỏi tôi có thể cho nhỏ tiếng lại được không ? Những khách trọ khác đều rất có ý kiến với thứ âm nhạc cổ quái tôi đang nghe. Tôi đành tắt máy, tắm nắng thêm một lúc, không cẩn thận ngủ thiếp đi. Thân thể yếu ớt, rất dễ ngủ gật. Lúc tỉnh dậy thì mặt trời đã sắp lặn. Bụng sôi sùng sục, đành chạy xuống quán nhỏ gần đó ăn đầy một bụng thịt dê.
Ăn xong, tôi đi bộ dọc theo phố cho tiêu hóa hết đống thịt dê béo ngậy trong dạ dày. Đi một mạch tới quán bar nhỏ lần trước đã kéo Trát Ba vào. Bên trong đang bật nhạc của The Beatles. Tôi ngồi trước quầy bar, gọi một chai bia của nhà máy địa phương, suy nghĩ về chuyến đi của Trát Ba, cảm thấy tiếc nuối vì không thể đồng hành. Một người Kazakh say rượu lè nhè đòi bật mấy bài hát đang thịnh hành. Nhân viên phục vụ đành đổi đĩa.
Tôi uống nốt chai bia rồi lặng lẽ rời khỏi đó.
Đi dọc theo phố, qua một phòng bi a, liền vào trong xem thử. Họ đánh cũng được, nhưng hơi thô bạo, cứ như đánh bóng chày vậy. Tôi định lên tiếng khuyên họ nên ôn hòa một chút, nhưng nghĩ lại thấy thực ra cũng chẳng có gì, đành chán nản đi ra.
Rẽ vào một con phố lớn, đèn điện quảng cáo sáng rực, rất ồn ào náo nhiệt. Không ngừng có người hỏi: "anh bạn có muốn kiếm một cô em người Duy 'hầu hạ' không ?" Tôi bị ảnh hưởng của Trát Ba, ghét nhất là người lạ gọi mình bằng bạn ! Lúc ấy rất muốn hỏi ngược lại họ: "Có cho tôi tiền boa không ?" , nhưng Trát Ba không ở bên cạnh, mà mấy kẻ này thì kẻ nào cũng hung hãn gớm ghiếc cả, tốt nhất là không nên gây sự thì hơn.
Trở về khách sạn, tôi lại ngồi ngẩn người ra ngắm bầu trời đêm.
Đột nhiên phát hiện ra trên tường treo một chiếc ghita cũ.
Cẩn thận gỡ xuống, nâng niu như cầm đồ quý. Đàn có sáu dây thì đã đứt mất hai, không đánh được hợp âm, chỉ có thể chơi đơn âm. Chỉnh mãi cũng không được âm chuẩn, đành miễn cưỡng chơi tạm. Chơi thử bài "So long, Marinane" của Leonard Cohen, thưởng thức cảm giác được đặt tay lên phím đàn. Chơi xong, nhất thời cũng không biết làm gì, liền ngồi đó đàn lại tất cả các bài hát cũ của Leonard Cohen một lượt.
Đặt đàn xuống. Ngồi dựa lưng vào ghế, ngẩng đầu ngắm sao Bắc Đẩu.
Ngân nga lại bài "Những Bông Hoa Ấy".
Đến đoạn "chúng ta là vậy, mỗi người một phương" thì chợt nhớ đến Bất Bất, một cảm giác chua xót không biết từ đâu tràn về, nước mắt bỗng dưng trào ra.
Đến giờ, cuối cùng thì tôi cũng biết, cũng phải thừa nhận, tôi và Bất Bất đã "mỗi người một phương". Từ đây hai người đi trên hai con đường khác nhau, không còn liên quan tới nhau nữa, cũng không còn ảnh hưởng gì cho nhau cả. Cái gọi là đau lòng vì tình, thực ra chỉ là tưởng tượng của cá nhân, chỉ là chuyện của một mình mình, hoàn toàn không liên quan gì đến Bất Bất cả. Tôi cần phải dũng cảm mạnh dạn bắt đầu cuộc sống mới, không thể để nỗi đau này tiếp tục hoành hành tác quái được nữa.
Cuộc sống là của tôi, không thể giao vào tay một người đã đầu hàng "quân địch".
Giờ tôi đã biết mình cần giao nó vào tay ai.
Chỉ hận không thể lập tức giao nó cho em mà thôi.
Tôi chạy ra quầy tiếp tân, gọi điện về nhà.
Không ai nghe. Tiếp tục gọi lại. Mãi về sau mới có người bắt máy, là Lông Mi.
Tôi kích động gào lên: "Anh là Quản Ngai đây, anh ở Tân Cương, em khỏe không ? Có muốn tới đây không ? Chúng ta ..."
Điện thoại đột nhiên tút tút liên hồi. Tôi buộc phải nhấc ống nghe ra xa.
Áp ống nghe trở lại tai, chỉ nghe Lông Mi "alô, alô" không ngừng, một lát sau thì gác máy.
Tôi nhìn chủ khách sạn, anh ta cũng nhìn lại tôi. Cả hai đều không biết làm thế nào, không tiện chiếm mãi điện thoại, đành dập máy.
Cứ thế lại thêm mấy ngày nữa trôi qua.
Đột nhiên có cảm giác mình giống một con diều đứt dây, bay lượn trên không trung một cách đáng thương hại.
Sợi dây đó vốn nằm trong tay Bất Bất. Bất Bất đột nhiên buông tay. Hi vọng Lông Mi có thể nắm lấy. Rồi không hiểu sao lại phiêu bạt tới dây, cũng may là được Trát Ba với Kha Lan giữ lại. Giờ họ lại như cố ý muốn buông ra, nhất thời tôi cũng không thể nào quen được cái thứ gọi là tự do này. Cảm giác "không quen với tự do" khiến tôi chìm vào trầm tư.
Trước nay tôi vẫn tôn sùng "thà chết còn hơn mất tự do", tại sao đột nhiên lại có cảm giác "không quen với tự do" như thế này ? Lẽ nào phải thay đổi quan điểm và thái độ sống của mình trước đây ? Không biết nữa. Chỉ là từ sau khi gặp Lông Mi và Trát Ba, có rất nhiều quan niệm cũ đã bị lung lay, những suy nghĩ mới cứ như sóng đập bờ đê, muốn trào dâng lên để tạo thành cơn lũ. Chưa bao giờ tôi mong có người nắm lấy sợi dây diều, đừng để nó tiếp tục phiêu bạt một cách hoang mang không mục đích như lúc này.
Tôi đã mệt.
Tôi cần nơi để dừng chân.
Mấy ngày sau đó đề không có tin tức gì.
Gọi điện qua, không ngờ nghe được tin Kha Lan đang làm thủ tục thôi việc. Tôi kinh ngạc vô cùng, vội chạy qua quán nhỏ của Trát Ba, thấy Kha Lan đang rầu rĩ thu dọn đồ đạc, nhìn thấy tôi, cô có vẻ muốn tránh né. Tôi liền chạy tới chặn trước mặt, Kha Lan ngẩng đầu lên, hai mắt cô đã sưng húp lên như hai trái đào, sắc mặt trắng bệnh như tờ giấy.
Tim tôi chợt đau thắt lại.
Kha Lan báo cho tôi biết Trát Ba đã xảy ra chuyện.
Trát Ba đã chết.
Tôi ngẩn người, đứng đần ra ở đó.
Kha Lan không thể khống chế được bản thân, bổ vào lòng tôi khóc òa lên, vẻ mặt tuyệt vọng như bụi cỏ lạc đà cuối cùng sắp bị sa mạc nhấn chìm trong cát.
Sáng sớm hôm sau, tôi đã ngồi trên xe lửa trở về.
Trước khi đi, tôi cầm hết tiền trong người đưa cho Kha Lan. Cô đã mất Trát Ba, không còn công việc, lại là một cô nhi, số tiền này có lẽ sẽ cần thiết. Kha Lan sống chết thế nào cũng không chịu nhận, cuối cùng đành miễn cưỡng cầm lấy, cẩn thận cho vào túi, dáng vẻ thương tâm khổ sở lúc đó của cô khiến tôi càng thêm khó chịu gấp bội phần. Kha Lan do dự một lúc lâu, rồi mới đưa cho tôi một chiếc phong bì lớn, yêu cầu tôi lên tàu rồi hãy mở ra.
Buổi tối hôm trước khi lên đường, tôi có tìm đến quán bar nhỏ, nơi tôi và Trát Ba, Kha Lan đã từng đến qua.
Bên trong không bật The Beatles nữa. Tôi yêu cầu nhân viên phục vụ cho nghe mấy bài cũ của The Beatles, anh ta lười nhác trả lời khách đã chọn bài khác. Tôi lại hỏi không thể thương lượng được với người kia à ? Anh ta lắc đầu từ chối với thái độ rất cương quyết. Không hiểu lúc đó tôi nghĩ gì, mà gọi một bình rượu, dùng sức đập mạnh xuống đất, một đám người nhảy xổ ra vây lấy đánh tôi tới tấp. Tôi ôm đầu, lách bên trái, tránh bên phải, miệng hét lớn giận dữ, không hề sợ hãi. Chủ quán thấy thế vội vàng chạy tới, kéo tôi ra ngoài, Tôi cũng chẳng buồn cám ơn, ủ rũ đi thẳng một mạch. Đã nhiều năm không bị ai ức hiếp, cảm giác này quả thật rất khó chịu, khó chịu đến độ khiến tôi suýt bật khóc. Đi qua một cửa hàng thuốc, tôi bèn vào mua một lọ an thần, về khách sạn, đổ ra một vốc uống rồi vùi đầu ngủ.
Ngồi trên xe lửa vắng tanh, tôi mở chiếc phong bì của Kha Lan đưa cho trước khi lên đường ra.
"Cạch !" Một vật gì đó rơi ra.
Tôi nhặt lên. Là một miếng xương được mài thành hình cái răng.
Trong phong bì còn có một lá thư nữa.
Tôi nghi hoặc mở ra đọc, bức thư này là Kha Lan viết cho tôi.
Quản Ngai,
Em vốn định không nói gì với anh cả. Thực ra là Trát Ba đã đi tìm một chiếc răng báo, bởi chiếc răng báo mà anh ấy bán cho anh lúc hai người gặp nhau lần đầu không phải là răng thật. Báo rất khó bắt, thế nên răng báo là đồ rất hiếm.
Trát Ba nói, câu đầu tiên mà anh ấy nói với anh là "bạn bè không phải để lừa gạt" . Lúc đó, anh ấy bán răng báo giả cho anh vì không ngờ sau này hai người lại trở thành bạn bè thật, bởi vậy nên anh ấy cứ áy náy không yên mãi.
Lần đó, sau khi anh phải về trước vì ốm, Trát Ba vẫn tiếp tục đi tìm mua răng báo, nhưng vẫn không có kết quả gì.
Anh ấy đến Vu Điền, nghe nói có đội thợ săn sắp xuất phát, một người quen trong đội cho biết có tin báo xuất hiện ở gần đó. Trát Ba liền trả giá cao để đặt trước một chiếc, về sau không biết thế nào lại thay đổi chủ ý, quyết định đích thân tham gia đội săn ấy.
Họ đi dọc theo rìa phía nam của sa mạc Taklimakan, đi sâu vào núi Côn Luân, tìm kiếm dấu vết của báo. Rồi họ tiến vào Tây Tạng, một hôm đội săn đang dừng lại nghỉ ngơi, thì Trát Ba nghe được tin gần đấy có một di tích cổ không tên, liền một mình đến xem thử. Sáng sớm anh ấy đã đi, đến tận trưa mà vẫn không quay lại. Mọi người cảm thấy không ổn, bèn đi tìm. Lúc thấy Trát Ba thì anh ấy đã bị thứ dã thú nào đó xé nát bét người, nhưng vẫn còn chưa đứt hơi. Anh ấy không mang theo vũ khí, chỉ dùng đôi tay để chiến đấu với dã thú.
Khi em đến nơi thì Trát Ba đã chết.
Sau đó mọi người đưa anh ấy về Trát Đạt ở Tây Tạng, đó là quê nhà của Trát Ba. Anh ấy đã nói, sau khi chết muốn được thiên táng theo phong tục của quê nhà, nói nếu thân thể được chim ưng ăn hết, linh hồn mình sẽ được cùng chim ưng bay lên tầng trời cao nhất, tốt đẹp nhất.
Tang lễ do chú của Trát Ba chủ trì, em không dám tham gia. Chú anh ấy là hòa thượng trong chùa Thác Lâm ở gần Trát Đạt. Em cũng chỉ biết địa điểm Thiên Táng là ở chỗ nào đó gần di tích Cổ Cách, nơi mà Trát Ba đã chọn cho mình từ khi còn rất nhỏ.
À, chiếc răng trong phong bì thực ra là em nhờ người lấy trộm từ xương vai Trát Ba về đấy. Em nghĩ, nó đối với anh còn quý giá hơn cả răng báo nhiều. Với lại, như thế Trát Ba có thể luôn đi theo bảo vệ anh.
Tất nhiên, em cũng có một chiếc.
Kha Lan.
Tôi đeo chiếc răng được mài từ xương Trát Ba lên cổ.
Ngẩng đầu nhìn trời.
Trên bầu trời xanh thẳm cao cút, một chú chim ưng đang kiêu ngạo lướt giữa từng không, sải cánh tung bay.
Cúi đầu. Nhận ra trên chiếc răng còn mờ mờ một vết dao. "Có lẽ là vết dao lần trước Trát Ba đã đỡ giúp mình ?"
Tôi vừa nghĩ vừa không kềm được nước mắt trào ra, trong lòng cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Nietzsche còn nói: "hi vọng" ngược lại chính là thứ tai họa lớn nhất bay ra từ chiếc hộp Pandora, bởi vì nó kéo dài sự đau khổ của con người. Muốn kết thúc đau khổ của chính mình, giờ tôi bắt đầu không hi vọng nữa.
Không làm ra vẻ đang âm thầm chịu đựng.
Không đem tương lai của mình gửi gắm cho người khác một cách không chắc chắn.
Thời gian, thực ra là thứ vô tâm nhất trên đời này.
Những chuyện đã trải qua, bất kể là cảm động thế nào, tất cả đều bị thời gian xóa nhòa, tất cả đều từ từ bị thời gian nhấn chìm từng chút một. Người kiên cường đến mấy rồi cũng bị ép phải lựa chọn để trở thành một kẻ vô tâm, cố gắng học cách quên đi, học cách ngụy trang, học cách dùng tương lai tươi đẹp để lừa gạt hiện tại khó khăn trước mắt.
Tôi cũng chỉ biết làm vậy, cố gắng học cách tạm thời quên Trát Ba đi.
Vác hành lý trên vai trở về nhà, trống huếch trống hoác.
Không biết Lông Mi đã đi đâu mất rồi.
Thở dài một tiếng, vào bếp kiếm mấy gói mì ăn liền, cho vào nồi nấu với mấy gói rau cải khô, rồi lặng lẽ ngồi ăn một mình.
Quan sát trong phòng, kinh ngạc nhận ra chiếc kính thiên văn của Lông Mi đã biến mất. Tiếp tục quan sát, tất cả đồ vật của em đều đã không còn nữa. Hình như em đã đi rồi ? Cả một mảnh giấy để lại cũng không có. Chắc là tại quá thất vọng vì tôi đã bỏ đi không lý do ? Cảm thấy hơi khó chịu. Trát Ba đã chết, vốn hi vọng có thể tìm chút ấm áp ở chỗ Lông Mi, giờ thì hi vọng đã tắt ngấm.
Ngồi trên sofa, chẳng muốn làm gì.
Bật máy DVD lên xem, là phim "Lola chạy mau", chắc là phim cuối cùng mà Lông Mi xem ở nhà. Buồn chán ngồi nhìn màn hình TV, dòng suy nghĩ như một chậu cát khô, không thể hòa nhập. Câu chuyện trên phim kể về một cô gái tên là Lola điên cuồng chạy khắp nơi để giúp bạn trai tìm lại một món tiền đã mất. Số tiền này là tiền của bọn xã hội đen, nếu tìm không thấy, bạn trai cô sẽ phải lấy mạng ra để đền bù. Nhưng biển người mênh mông, biết đi đâu mà tìm bây giờ ?
Bạn trai Lola phát cáu lên với cô:
- Em cứ nói tình yêu là vạn năng, thế tình yêu có biến ra được một trăm nghìn Mark trong hai mươi phút không ?
Cuối cùng không ngờ bọn họ cũng tìm thấy được số tiền đó, xem ra tình yêu đúng là vạn năng thật.
Câu nói đó đúng là làm người ta phải suy nghĩ nhiều, tôi ngồi thần ra trên ghế trằn trọc một lúc lâu.
Nghĩ mãi rồi cũng chán, tôi đứng dậy dọn dẹp đồ đạc, xuống nhà lấy xe.
Tìm đến phòng tranh lần trước.
Ông chủ đang treo bức tranh "Mẹ" lên tường. Tôi hỏi thăm ông chủ về Lông Mi thì anh ta nói gần đây em không đến. Thất vọng đi ra ngoài, rồi lại vòng lại mua bức "Mẹ" kia về, tiện thể hỏi luôn địa chỉ mấy phòng tranh khác, qua đó xem thử, cũng không có tin tức gì của Lông Mi hết. Một họa sĩ quen Lông Mi nói hình như em đã đi Tây Đệ.
Xem ra thì không thể tìm thấy Lông Mi trong 20 phút được rồi.
Có lẽ 20 tiếng sẽ đủ chăng ?
Lái xe đi thẳng đến Tây Đệ, đến chiều tối thì đến nơi.
Lượn lờ khắp thị trấn cổ đến tận nửa đêm, đi khắp các khách sạn, cũng không thấy bóng em đâu.
Có lẽ 20 tiếng cũng không tìm được Lông Mi đâu. Biết đâu 200 tiếng được thì sao ?
Quyết định ở lại.
Ngày hôm sau tiếp tục tìm kiếm, nhưng vẫn không có kết quả. Đằng nào thì cũng không có chuyện gì, tôi liền ở đó luôn một tuần. Đến khi hi vọng biến thành tuyệt vọng. Rốt cuộc thì tôi cũng không thể tiếp tục như vậy, không thể tiếp tục một cuộc tìm kiếm 2000 tiếng đồng hồ nữa. Cuộc đời còn lại của tôi, liệu còn được bao nhiêu cái 2000 tiếng đồng hồ tội nghiệp kia mà phung phí ?
Tôi trọ trong khách sạn lần trước.
Bà lão đã bất ngờ mắc bệnh qua đời. Khách sạn mất đi linh hồn, trở lên vắng vẻ lạnh lẽo đi nhiều.
Ông già lại càng trầm mặc ít lời. Lạ một điều là, cái chết của bà lão, hình như đã gợi cho ông một điều gì đó, ông đã ôn hòa ấm áp hơn trước rất nhiều, thỉnh thoảng còn chào hỏi tôi, nói chuyện mấy câu nữa. Ngược lại, tôi vì cái chết của bà lão, cộng với chuyện không tìm được Lông Mi làm cho lòng tin với cuộc sống bắt đầu lung lay, chẳng buồn để ý đến ông lão nữa. Ông lão đành tiếp tục trầm mặc ít lời, nét mặt ít nhiều cũng có chút tủi thân.
Mỗi ngày tôi đều ngủ hết buổi sáng, trưa mới dậy, buổi chiều ngồi trên sân thượng khách sạn tắm nắng.
Gác chân lên lan can gỗ, ngắm nhìn dãy núi cao thấp nhấp nhô đằng xa và những mái ngòi xanh san sát ngay bên cạnh, mỗi lần ngồi là hết cả buổi chiều. Hôm nào ngồi chán, tôi lại đi bộ lang thang không mục đích khắp thị trấn, thấy cửa mở thì vào, thấy ngõ nào là chui luôn vào ngõ đấy, lạ một điều là đi mãi cũng không kiếm được cái ngõ cụt nào. Đi mệt rồi thì ngồi trong con hẻm nhỏ vắng bóng người qua lại hút thuốc. Thỉnh thoảng cũng cảm thán cho thân phận cô đơn của mình, rồi lặng lẽ khóc thầm, nước mắt lã chã tuôn rơi.
Có lúc tôi lại ra ngồi ở bờ hồ gần ngôi miếu đầu làng xem các nữ sinh vẽ tranh. Tình cờ cũng có người nhiệt tâm thấy tôi cử chỉ quái dị, có lòng tốt hỏi thăm vài câu, nhưng tôi mặc kệ không để ý, chỉ bần thần ngồi ngây ra đó như bức tượng. Có lẽ tại ngồi lâu quá, không ngờ bị họ coi luôn là người mẫu, líu ra líu ríu vừa nhìn tôi vừa đưa bút vẽ phác họa, rồi cười đùa rúc rích khoa tay múa chân bình phẩm mặt mũi tôi. Bước lại xem, thấy mình trong tranh tựa như một cỗ xác ướp, lòng không nén nổi nỗi đau dâng trào, đành lặng lẽ nuốt tiếng thở dài bỏ đi.
Đói thì ra các quán ăn ngoài trời nhỏ ở quảng trường thị trấn.
Có một hàng làm món gà nướng rất ngon. Nhưng tôi gọi lên rồi lại chẳng ăn được mấy miếng, toàn ném cho một con chó nhỏ cạnh đó. Một con chó nhỏ lười nhác và bẩn thỉu, thậm chí còn không biết là loại chó gì nữa.
Con chó cứ lại gần một bàn, lặng lẽ đứng yên, không kêu cũng không sửa, vô cùng nhẫn nại chờ đợi, nhưng rất ít người ném đồ ăn cho nó, thậm chí còn đuổi nó đi, con chó lại sang một bàn khác, cứ thế tuần hoàn như vậy. Duy chỉ có tôi là ném cho nó rất nhiều thịt, con chó hình như vì thế mà có cảm tình với tôi, chỉ cần tôi đi qua đó, là nó đã vẫy đuôi chạy tới, tung tăng vòng vòng trước mặt tôi, đi theo một quãng rất xa. Nó không hề có ý xin thức ăn, mà phảng phất như chỉ muốn tìm một người bạn. Điều này làm tôi rất cảm động, huống hồ tôi cũng đang cần một người bạn. Thế là mỗi ngày cứ đến giờ đó là tôi lại đến quán ăn ấy ăn cơm, con chó nhỏ cũng đúng giờ ở đó đợi tôi. Về sau nó còn đi luôn với tôi khắp các ngõ hẻm, như hình với bóng. Cuối cùng chủ con chó cũng có ý kiến. Tôi đành không đến đó ăn cơm nữa, thỉnh thoảng mới qua ném cho con chó cái gì ăn.
Đến chỗ bác già ăn tào phớ, bác vui vẻ nhắc đến Lông Mi, không tiện giải thích, tôi đành đáp qua loa cho xong chuyện.
Sau rồi tìm được một bar rượu nhỏ trong một ngôi biệt thự cũ kỹ.
Chủ quán tương đối trầm, thậm chí còn không treo cả biển cho quán bar, khách thích đến thì đến, không thích thì thôi, điều này làm tôi rất thích. Hàng ngày, cứ tầm 8 - 9 giờ tối, sau khi đã đi lang thang khắp nơi trong thị trấn cổ, là tôi lại vào quán bar, gọi một chai bia do địa phương sản xuất, uống từng ngụm nhỏ một. Ngồi nghe bài hát "Chuyện thành phố nhỏ" của Đặng Lệ Quân mà quán bar ngày nào cũng mở, nhìn người qua lại ngoài đường, rồi lặng lẽ thần người ra. Quán bar từ sáng tới tối chỉ có một mình tôi là khách, quen rồi họ cũng chẳng coi như người ngoài, nhiều khi nhàn rỗi quá, tôi lại ra sân nhà họ tản bộ. Tôi rất thích những viên gạch lát sàn lớn trong phòng khách nhà họ, nhìn vừa dày vừa chắc chắn, bước lên trên đó, bao nhiêu tâm sự gì cũng có thể tan biến hết.
Chủ quán là một người thích du lịch, đang trên đường đi khắp nơi, để lại quán cho bố mẹ coi sóc. Bố mẹ anh ta không biết bật nhạc, trong quán lại chỉ có mình tôi, bèn nhờ tôi chọn giúp. Tôi cầm hộp đĩa xem thử, thấy chủ quán để lại rất nhiều nhạc Jazz, "Bossanova", "Country Blues", còn có cả một ít rock nữa. Có Gun&Rose;, tôi rất muốn nghe "Don't cry" nhưng đang canh ba nửa đêm, không tiện phá hoại sự yên tĩnh của thị trấn nhỏ, đành chọn một đĩa của Leonard Cohen, "Hey That's no way to say goodbye" , tiếng nhạc u uất bay lên, trong sự thê lương còn ẩn chứa một chút ấm áp. Tôi vừa uóng rượu, vừa nghịch chiếc vỏ đĩa: Leonard Coen ngồi quay lưng lại với ống kính, trước mặt là một nóc nhà mái ngói xanh như những ngôi nhà mái ngói xanh ở Tây Đệ, cô đơn ôm cây đàn ghita, tựa như đang khẽ ngân nga một khúc nhạc, lại tựa như đang trầm mặc suy tưởng, sự lạc lõng cô đơn tràn đến bao vây xung quanh người ca sĩ.
- Người này đang đọc hay là đang hát thế ?
Ông già nheo nheo mắt cười, hiếu kỳ hỏi tôi.
Vốn định trả lời: "Đó là một thi sĩ dân ca, hát tức là đọc thơ."
Nhưng một câu như vậy quả thực là không thể giải thích rõ. Đành thay một đĩa nhạc sáo Scotland.
"Thổi sáo hay thật đấy. Dân ca à ? Tỉnh nào thế nhỉ ?"
Ông già lại nheo mắt hỏi.
Tôi chỉ cười, khẽ lắc đầu.
Khách du lịch đến Tây Đệ đa phần là những người giàu có ở vùng Triết Giang. Đi về trong ngày, số trọ lại qua đêm rất ít.
Buổi tối, nơi đây đặc biệt vắng vẻ, một tiếng chó sủa cũng có thể truyền đi khắp thị trấn. Tôi cũng thử làm vậy vài lần, hiệu quả không tệ lắm. Bắt đầu mê thích sự lạnh lẽo vắng vẻ ở đây, tôi thường một mình đi lang thang khắp nơi, nhẹ chân lê bước trên đường.
Tôi cũng có một người bạn, một chú mèo.
Tôi khẽ bước trong một ngõ hẻm nhỏ, chú mèo lặng lẽ đi theo trên bờ tường. Tôi qua cầu, mèo cũng bò qua mái cầu bên trên. Tôi ngồi trong đình nhỏ nghỉ chân hút thuốc, mèo nằm cuộn tròn trên mái đình nhìn tôi ngáp ngáp. Tôi đi đã mệt, về khách sạn ngủ, mèo cũng đi theo nhảy lên nóc nhà. Tôi nằm trên giường nghĩ ngợi, mèo thì nằm trên mái ngói xanh lim dim ngủ.
Nhắm mắt lại một lúc.
Mở ra.
Chú mèo đã biến mất.
Một buổi chiều như bao buổi chiều khác, tôi trả phòng, quyết định về nhà.
Ông già có vẻ lưu luyến lắm, có lẽ hai người đàn ông trầm mặc ít nói ở với nhau, đã được một thứ tình cảm gì đó gắn kết lại ?
Tôi đến quán ăn nọ cho con chó một miếng thịt cuối cùng, rồi ra chợ ăn hai bát tào phớ của bác già, về khách sạn chào tạm biệt ông lão. Ông nói hôm nay là cuối tuần, người đến sẽ rất nhiều, rất náo nhiệt, còn có cả đoàn kịch địa phương dựng rạp biểu diễn nữa.
Tôi chỉ cười cười, nói mình không thích náo nhiệt rồi lặng lẽ ra đi.
Vĩnh hằng trở lại.
Nietzsche nói: tất cả sự vật lần lượt diễn ra, vĩnh hằng thống nhất sẽ lặp lại.
Trước đây tôi luôn cảm thấy thật khó hiểu, giờ khi ngồi bò ra trên quầy bar quen thuộc, tôi cuối cùng cũng đã hiểu ra: ví dụ như trong một khoảnh khắc nào đó, sẽ có một tâm trạng tuyệt đối giống như lúc này lướt nhẹ qua người tôi một lần nữa. Ví dụ như tâm trạng quen thuộc lúc này chẳng hạn, không ôm hi vọng với cuộc sống, mà ôm ly whisky ngồi lặng lẽ chờ đến lúc say.
Nietzsche còn nói: "hi vọng" ngược lại chính là thứ tai họa lớn nhất bay ra từ chiếc hộp Pandora, bởi vì nó kéo dài sự đau khổ của con người.
Muốn kết thúc đau khổ của chính mình, giờ tôi bắt đầu không hi vọng nữa.
Không làm ra vẻ đang âm thầm chịu đựng.
Không đem tương lai của mình gửi gắm cho người khác một cách không chắc chắn.
Bì Tử và Trà Sữa thấy tôi quay lại thì đều mừng rỡ ra mặt, chạy ra đón chào, ôm chặt lấy tôi.
- Nghe nói cậu chạy tới tận Tân Cương phải không ?
Bì Tử hỏi.
- Người ta buồn tình, nên đi giải khuây đấy.
Trà Sữa cười cười.
- Tình mới chả tiếc cái gì, có sex là được rồi. Có sex là có tình, không có sex thì cũng chẳng có tình đâu.
- Không có tình thì nói gì đến chuyện sex ? Người và động vật cũng phải có điểm gì khác nhau chứ ?
Trà Sữa và Bì Tử cứ mỗi người một câu, ngược lại làm tôi đỡ phải lên tiếng nói chuyện.
Đảo mắt một vòng quan sát quán rượu. Khung cảnh quen thuộc, mùi vị quen thuộc, âm nhạc quen thuộc, chỉ có người là xa lạ. Không có một bóng người quen, chỉ toàn là những gương mặt lạ lẫm. Tôi thở dài một tiếng. Quán Đầu đưa cho một ly whiskey, tiện thể cười cười bắt tay tôi một cái.
- Miền Tây có vui không ?
Quán Đầu vừa pha rượu vừa hỏi.
- Cũng tạm.
- Giống như kia không ?
Quán Đầu hất mặt nhìn vào màn hình.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn, đang bật phim "Thelma & Louise", đến đoạn hai cô gái cô độc lái xe băng qua sa mạc.
- Cũng gần gần như vậy.
Đột nhiên cảm thấy rất nhớ khoảng thời gian đó, nhớ đến cô gái chân chất ngây thơ Mũ Bò và anh chàng khảo cổ.
Tất nhiên còn có cả Trát Ba.
Bì Tử kéo tôi ra ngồi cạnh cửa sổ.
Trên sofa đang có mấy cô bé đang ngồi ngả ngớn. Cậu ta tới thiệu từng người một cho tôi làm quen, còn đặc biệt nhấn mạnh một cô bé tên là Hồ Đào, mặt mũi quả nhiên rất xuất chúng. Mấy cô bé này còn rất trẻ, vẫn còn đang đi học. Tất cả đều ăn mặc rất đơn giản, quần bò và áo T-shirt, mặt không trang điểm, nụ cười rất thật, không hề có chút giả tạo, cái gì cũng thấy hiếu kỳ, thứ nhạc gì cũng muốn nghe thử. Các cô bé này đều không muốn trở thành những cô bé hiền lành chân chất, mà khát khao được xấu đi một chút. Các cô không còn hứng thú với những trò vui dưới ánh sáng mặt trời, mà muốn vươn mình về những nơi tăm tối của cuộc đời. Các cô muốn biến sai lầm thành vui vẻ, khát khao muốn có những trải nghiệm không bình thường và những cảm giác mới lạ.
Những cô bé này đang ở cái tuổi mà người ta có thể lao đầu vào họng súng không nuối tiếc, ở cái tuổi thanh xuân khiến người ta phải đau lòng xót dạ.
Tôi khẽ thở dài.
- Nghe nói anh đã đến Đôn Hoàng ?
Cô bé tên Hồ Đào hiếu kỳ hỏi tôi.
Tôi mỉm cười gật đầu.
- Ở đó có đồ gì ăn ngon không ?
- Hồ Đào.
Tôi cười cười trêu cợt. Hồ Đào đấm mạnh vào vai tôi, điệu bộ như một cô bé con, trông rất đáng yêu, làm em gái thì quả thật vô cùng hợp.
- Dưa Đôn Hoàng.
Cuối cùng cũng nghĩ ra được một món.
- Lần sau đi nữa thì mang về cho em một ít nhé ?
Tôi gật đầu đáp ứng. Hồ Đào xòe ngón tay nhỏ ra đòi tôi móc nghéo.
- Ở trường nhàn rỗi lắm hả ? Sao còn thời gian đi ngồi quán bar thế này ?
- Chán lắm. Đi học hay không cũng thế thôi, đằng nào thì tốt nghiệp xong cũng đâu cần phải tìm việc. Tìm một ông chồng có tiền là được, rồi dựa vào hắn mà sống. Một tuần nay em không đi học rồi.
Hồ Đào nói. Không gian bị im lặng bao trùm trong thoáng chốc.
Tôi chăm chú lắng nghe Duke Ellington hát, phảng phất như đang ở trong câu lạc bộ Jazz Cotton Club nổi tiếng. Còn Hồ Đào thì ngồi nhìn đủ các loại người trong quán với vẻ rất hứng thú và hiếu kỳ. Tôi liếc nhìn sang chỗ Bì Tử, thấy cậu ta đang ôm một cô bé, rủ rê uống rượu, không ngừng sờ mó chỗ này, hôn hít chỗ kia, ra sức lợi dụng được chút nào hay chút đó. Tôi chẳng biết nói gì, chỉ biết chau mày cười buồn bã.
- Có hay đến quán rượu không ?
- Đây là lần thứ ba.
Hồ Đào nhìn chăm chăm vào một cô gái ăn mặc rất đẹp ngồi cách chỗ chúng tôi không xa lắm.
- Cảm giác thế nào ?
- Vui ! Hồi trước em cứ nghĩ quán rượu là phải loạn xạ ồn ào lắm, không thích hợp cho sinh viên bọn em. Nhưng đến một lần rồi lại thấy rất tuyệt, so với ngồi lỳ trong ký túc xá nghe đài thì tuyệt hơn nhiều. Còn quen được nhiều người nữa. Em thích lắm !
Cô bé nheo nheo mắt nhìn tôi nhoẻn miệng cười.
Bàn bên cạnh có một người quen vẫy tay gọi, tôi bèn để Hồ Đào ngồi đó rồi bước sang. Người này là một anh bạn cũ rất thích du lịch, nghe nói tôi đã đi Tân Cương, liền kéo lại bắt tôi kể chuyện hết cả tối. Đặc biệt anh ta rất hứng thú với hành trình đi theo rìa sa mạc Taklimakan, còn bảo nhất định sẽ đi một chuyến cho biết nữa.
Thỉnh thoảng tôi lại ngoái đầu nhìn Hồ Đào.
Đã có người cầm ly rượu đến ngồi bên cạnh em, mặt mày tươi rói, nói chuyện thao thao bất tuyệt, vừa nói anh ta vừa lắc lắc chùm chìa khóa xe trong tay. Hồ Đào bị sự giàu có và vẻ ngoài trông rất phong độ của người này hấp dẫn, cứ ngồi trố mắt ra lắng nghe anh ta ba hoa, thỉnh thoảng lại mỉm cười. Anh chàng này trông rất quen mặt. Tôi nghĩ một lúc, cuối cùng cũng nhớ ra, anh ta cũng là một tay chơi, hồi trước rất hay đến quán bar của tôi dụ gái, cho chút ân huệ rồi gạt con nhà người ta lên giường, sau đó nói mình đã có vợ, bắt cô gái đáng thương phải chọn một là làm tình nhân lén lút, hai là chia tay, chỉ có thế mà thôi.
Tôi thở dài một tiếng.
Một lát sau thì Hồ Đào đứng dậy, qua chào tôi. Hỏi tối nay có cần đưa về không, thì cô bé cười cười, nói tối nay đã có người tiễn rồi. Nói xong Hồ Đào quay ra kéo mấy cô bé cùng đi, rổi cả bọn đi theo anh chàng kia ra ngoài.
- Cậu làm sao thế ? Không thích con bé ấy à ?
Bì Tử thắc mắc.
- Thích.
- Thích thì sao không dụ nó đi ? Hàng tươi đấy ! Tối nay chắc chắn có kịch xem, con bé ấy hỏi thăm cậu từ mấy lần trước rồi.
- Thích không nhất định phải dụ dỗ.
Thực ra trong lòng tôi cũng chẳng có tâm tình mà làm chuyện ấy.
Chỉ cần tin và yêu Người ướt thế này thì khác nào con chuột cống chui vào cung điện, để rồi bị đuổi ra, trở về với cống. Nghĩ thế, tôi chỉ muốn khóc ròng. |